Cùng dừng chân tại khu di tích lò gốm quận 8 ngày xưa


I – Tìm hiểu sơ nét về lò gốm Hưng Lợi

Lò gốm Hưng Lợi (khu phố 5, phường 16, quận 8) được công nhận là di tích lịch sử quốc gia. Do sự thiếu quan tâm bảo tồn, bảo tồn di tích này đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Thậm chí Trần Văn Tuấn, một nhân viên văn hoá và xã hội tại phường 16, quận 8, cũng mất phương hướng khi dẫn chúng tôi tới khu di tích này.
Năm 1999, sau khi lò gốm Hưng Lợi được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, chính quyền địa phương đã xây dựng một bức tường lưới và một cửa khẩu với dấu ấn của Khu di tích Gốm Hưng Lợi.
Tuy nhiên, ngay sau đó, dấu hiệu đã bị bỏ do tranh chấp đất đai tại khu vực. Khi chúng tôi đến, chỉ có một tàn tích. Hàng ràobị gỉ sét, cổng của các di tích, cỏ, rêu bám lên chằng chịt. Thậm chí phần quan trọng nhất của di tích là lò gốm cũng sụp đổ, chìm, biến dạng.

Ngày nay ở khu vực này còn lưu lại một số địa danh có liên quan đến nghề làm gốm như Kênh- Rạch - Bến Lò Gốm, đường Lò Siêu, đường Xóm Đất ... thuộc vùng Chợ Lớn ngày nay. Phế tích Lò Gốm là một gò cao khoảng 6m theo hướng Bắc Nam, một đầu (phía Bắc) cách kênh Ruột Ngựa khoảng 50m, đầu phía Nam có một con rạch nhỏ chảy ra kênh Lò Gốm - con rạch này cách đây khoảng 10 năm đã bị cạn, nay chỉ còn dấu vết từng đoạn rạch ngắn. Hai đầu của gò đất đã bị đào phá chỉ còn lại đoạn giữa dài khoảng 40m, chân gò rộng 30m. Cấu tạo gò chính là phần còn lại của những lò gốm với đống phế phẩm và phế liệu dày đặc hai bên sườn gò. Đợt khảo sát vào tháng 4/1997 đã cho biết đây là di tích khá lớn và khá nguyên vẹn, diện phân bố của nó lên đến 10.000m2. Chưa kể những ao nhỏ - dấu tích của việc khai thác nguyên liệu làm gốm - phân bố rải rác khắp làng Hòa Lục và cả làng Phú Định bên kia kênh Ruột Ngựa.

Đợt khai quật cuối năm 1997 và đầu năm 1998 cho biết khu lò gốm Hưng Lợi có cấu trúc khá phức tạp, do có 3 giai đoạn sản xuất gồm 3 lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau. Trên đại thể, có thể nhận thấy: cả ba lò tuy sớm muộn khác nhau nhưng đều cùng một kiểu lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau nhưng đều cùng một kiểu lò ống (lò tàu) thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Độ dốc của nền cao dần từ Bắc lên Nam, bề ngang của nền ở phía Nam hẹp hơn phía Bắc đôi chút (khoảng 5-7cm), dấu tích này đã cho biết vị trí bầu lửa của cả ba lò ở phía Bắc (là phía kênh Ruột Ngựa) và cửa thoát khói (ống khói) ở phía Nam. Cửa lò đều tìm thấy ở phía Đông, là phía phân bố chính của khu lò. Như vậy cửa ra - vào sản phẩm ở cùng một phía, và có thể ở cả cửa hậu.

Ảnh 1. Khu di tích sắp bị lãng quên

Ngoài cấu trúc chính là lò nung, các lò ống còn có các đoạn tường bao gia cố vách lò, đặc biệt gia cố đoạn vách gần vách hậu, nơi chịu nhiệt độ cao nhất. Tường bao thường bằng gạch xây vách lò, hoặc gạch bịt cửa hậu bị hư hỏng. Các viên gạch xếp chồng lên nhau, hơi nghiên ôm lấy chân vách lò. Có thể kè thêm một số lu hay khạp bị hỏng, hoặc xếp lu, khạp lên trên tường gạch, hoặc xây gạch lên trên hàng lu, khạp .... Tường bao có thể có nhiều lớp, tuỳ độ lan rộng của phế phẩm lò mà người ta xây tường bao chặn lại để tạo độ vững chắc cho lò.

II. Khảo tả di tích:
Di tích là một gò đất cao khoảng 5 mét, chân gò theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Trên gò có nhiều cây hoang dại như hai cây keo già, me… chung quang gò là vùng đất trũng có nhiều ao nhỏ. Quan sát đất đắp bờ bao nhận thấy là loại đất sét xám xịt mịn.
Hiện nay phía đầu Nam bị sụp, về phía Bắc của di tích đã bị dân san phẳng làm khu nghĩa địa nhỏ. Sau khi sửa sang lại vách và nền lò ở đầu phái Bắc, di tích được mô tả như sau:
Phát quật mặt bằng phái bắc gò làm xuất lộ một phần nền lò, một phần vách lò hai phía Tây, Đông và lớp hợp chất nghi là nóc lò (?). Đào năm hố thám sát hai bên sườn gò; thu lượm và phân loại được một số sản phẩm, gồm 3 chất liệu chính: sành (lu, khạp…), gốm xốp men nâu (hộp, siêu, tay cầm, chậu, vịm…), gốm bán sứ (chén, dĩa, cốc, ly, muỗng…) một số khuôn và hiện vật kỹ thuật…. Nhận định bước đầu: cấu trúc lò là ống dài thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Nền dốc năm độ từ Bắc (phía kênh Ruột Ngựa) lên phía. Dấu tích bầu lửa đã mất do việc xây mồ mả. Ống khói phía Nam. Cửa lò có thể ở cả hai bên.

III. Các hiện vật của di tích:
Có thể kể ra một số loại sản phẩm đặc trưng của khu lò Hưng Lợi:
Đầu tiên là loại lu (chum) lớn nhất, chất liệu sành nâu, dáng thuôn vào đáy hay bầu tròn, còn được gọi là lu 3 đôi hay lu 5 đôi nước (mỗi đôi nước 40 lít). Lu được tạo hình bằng phương pháp dải cuộn, sau đó dùng bàn dập sửa sang lại cho gắn kết và vỗ cho mỏng đều. Xung quanh các vách lò có rất nhiều lu hư hỏng chứa đầy mảnh sản phẩm hoặc đất, chất thành hàng dài hay chồng lên nhau để gia cố vách lò.

Ảnh 2. Một phần của khu di tích đã dần như bị bít lối đi

Chiếm tỷ lệ lớn nhất là các loại sản phẩm gốm và sành không men hoặc có men nâu hay men vàng (men da lươn, da bò). Về loại hình, chủ yếu là "đồ bỏ bạch" như siêu, ơ (nồi có tay cầm) với nhiều kích cỡ, các loại hộp men nâu. Trên nắp ơ, đáy siêu, đáy hay nắp hộp có in nổi ba chữ Hán trong khung hình bầu dục "Hưng Lợi Diêu" (lò Hưng Lợi). Ngoài ra còn có các kiểu khạp, hũ, chậu, vịm, chậu bông ... Đặc biệt trong lò này xuất hiện loại chậu bông (tròn hay lục giác) kích thước nhỏ, in hoa văn nổi men nâu, vàng (bông mai, cúc). Thân phủ men xanh đồng hay xanh lam, màu men đặc trưng của gốm cổ Sài Gòn.

Loại sản phẩm thứ ba là lại gốm men xanh trắng và men nhiều màu, gồm có tô, đĩa, bát, cốc. ly đèn, lư hương, ấm trà, bình rượu, thìa muôi ... Hoa văn xanh hoặc hoa văn nhiều màu (tím, đỏ, xanh lá cây, nâu, vàng), một số sản phẩm có những chữ Hán màu đen. Loại sản phẩm này không nhiều, nhưng vẫn có sản phẩm đặc trưng là tô con gà, thìa cá vàng in chìm hai chữ Hán "Kim Ngọc", cốc cao có 3 ngấn. Giai đoạn này phổ biến loại chậu kiểng lớn tạo dáng bằng khuôn in hai mang. Hoa văn in nổi là những đường hồi văn và các khung trang trí các mô típ phổ biến như Tùng Lộc, Mai Điểu, Bát Tiên ... Màu men phổ biến của chậu kiểng vẫn là xanh đồng, xanh lam, xanh lá cây ... Do sản phẩm chính là tô, bát, nên lò này còn được gọi là Lò Men (các hiện vật và hình ảnh khai quật được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử TPHCM).

Xung quanh khu di tích có nhiều ao nhỏ là dấu tích việc khai thác nguyên liệu làm gốm. Gần đây khu vực này vẫn còn một số lò gạch nhỏ. Bên kia làng Phú Định có vài gia đình làm ông lò (bếp lò) bằng đất sét đào ven kênh Ruột Ngựa trộn với tro (do trấu hun thành). Số lượng rất ít vì loại bếp lò này hiện chỉ tiêu thụ ở vùng ngoại thành hoặc ở miền Tây.
 Và hiện nay, khu lò gốm này mặc dù đã được coi là khu di tích lịch sử quốc gia nhưng đã bị xuống cấp nghiêm trọng, hiện nay đang ở giữa môi trường không sạch. Một số công trình bất hợp pháp tại khu vực này phản ánh sự quản lý và bỏ bê của cơ quan chức năng.

Cách đây không lâu, các nhà khảo cổ học và sinh viên trong và ngoài nước đến thăm di tích thường xuyên để nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu thực địa. Các nhà chức trách nói rằng rất khó để di chuyển cư dân ra khỏi một số địa điểm vì họ đã chiếm chỗ này trước khi các di tích được công nhận là di tích quốc gia hay thành phố.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến